Về vấn đề này, Sở Nội vụ trả lời như sau:
Hiện nay, Sở Nội vụ đang tham mưu UBND thành phố ban hành Quyết định về việc phân cấp thẩm quyền quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế, vị trí việc làm, cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn thành phố. Trong thời gian chờ quy định, Sở Nội vụ đã trình Chủ tịch UBND thành phố hướng dẫn tạm thời liên quan đến công tác nâng bậc lương thường xuyên, nâng phụ cấp thâm niên vượt khung, nâng bậc lương trước thời hạn đối với chức danh Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã và các Phó Trưởng ban chuyên trách của Hội đồng nhân dân cấp xã.
Sở Nội vụ phản hồi để công dân được biết.
Đối với nội dung vướng mắc trên, Sở Nội vụ trả lời như sau:
Ngày 09/07/2025, Sở Nội vụ có Thông báo số 137/TB-SNV về việc tuyển dụng lao động Việt Nam vào các vị trí dự kiến tuyển dụng lao động nước ngoài. Theo đó, khi thực hiện thủ tục Báo cáo giải trình nhu cầu, thay đổi nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài (thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh); các doanh nghiệp, tổ chức sử dụng lao động người lao động nước ngoài phải thực hiện thông báo tuyển dụng người lao động Việt Nam vào các vị trí dự kiến tuyển dụng người lao động nước ngoài trên Cổng thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (https://danang.gov.vn). Và tại khoản 4,Thông báo số 137/TB-SNV có nêu cụ thể thông tin cán bộ của Cổng thông tin điện tử, người trực tiếp hướng dẫn quy trình, thủ tục đăng tuyển (doanh nghiệp, tổ chức thông báo tuyển dụng trao đổi qua email: toasoan@danang.gov.vn hoặc số điện thoại: 0935.572012 - ông Ngô Trường Đức).
Tuy nhiên, ngày 07/8/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 219/2025/NĐ-CP quy định về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 07/8/2025, đã điều chỉnh các nội dung liên quan đến thông báo tuyển dụng, thủ tục giải trình nhu cầu sử dụng lao động người nước ngoài. Theo đó, không còn thủ tục hành chính riêng về Báo cáo giải trình nhu cầu sử dụng lao động người nước ngoài. Căn cứ Điều 18, Điều 27 Nghị định số 219/2025/NĐ-CP, người sử dụng lao động thực hiện hồ sơ đề nghị cấp/cấp lại Giấy phép lao động theo Mẫu số 03 Phụ lục ban hành kèm Nghị định về việc giải trình nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài và cấp/cấp lại giấy phép lao động (lồng ghép thủ tục Báo cáo giải trình nhu cầu sử dụng lao động người nước ngoài vào thủ tục cấp giấy phép lao động).
Về nội dung tuyển dụnglao động Việt Nam vào các vị trí dự kiến tuyển dụng người lao động nước ngoài, Nghị định số 219/2025/NĐ-CP quy định: “Trước ít nhất 05 ngày tính đến thời điểm nộp hồ sơ, người sử dụng lao động đã thông báo tuyển dụng người lao động Việt Nam theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Bộ luật Lao động về tuyển dụng lao động vào các vị trí dự kiến tuyển dụng người lao động nước ngoài. Thông báo tuyển dụng gồm các thông tin cơ bản sau: Vị trí công việc (cụ thể, lĩnh vực làm việc); hình thức làm việc; địa điểm làm việc; thời hạn làm việc; trình độ chuyên môn kỹ thuật (nếu có) (văn bản thông báo tuyển dụng kèm theo).
Và khoản 1 Điều 11 Bộ luật Lao động:“1. Người sử dụng lao động có quyền trực tiếp hoặc thông qua tổ chức dịch vụ việc làm, doanh nghiệp hoạt động cho thuê lại lao động để tuyển dụng lao động theo nhu cầu của người sử dụng lao động.”
Căn cứ các quy định nêu trên, từ ngày 07/8/2025, thực hiện Nghị định số 219/2025/NĐ-CP, người sử dụng lao độngcó thể tuyển dụng người lao động Việt Nam vào các vị trí dự kiến tuyển dụng người lao động nước ngoài bằng các hình thức: trực tiếp hoặc thông qua tổ chức dịch vụ việc làm, doanh nghiệp hoạt động cho thuê lại lao động. Vì vậy, ông có thể lựa chọn thông báo tuyển dụng theo các hình thức tại khoản 1 Điều 11 Bộ luật Lao động nêu trên (không quy định bắt buộc phải đăng tuyển trên Cổng thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, website danang.gov.vn).
Sở Nội vụ trả lời để ông được biết, đồng thời đính kèm Nghị định số 219/2025/NĐ-CP để ông tham khảo, thực hiện. Trường hợp ông còn nội dung vướng mắc, vui lòng liên hệ số điện thoại 02363.822.124, Phòng Lao động, việc làm, Sở Nội vụ thành phố Đà Nẵng để được hướng dẫn chi tiết.
Đối với câu hỏi của bà Phạm Thị Tuyết Hoa, Sở Nội vụ trả lời như sau:
Theo quy định tại Điều 33 Nghị định số 115/2020/NĐ-CP ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức, xét thăng hạng cho viên chức ở đơn vị sự nghiêp công lập (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 85/2023/NĐ-CP ngày 07/12/2023 của Chính phủ) việc tổ chức xét thăng hạng được phân định như sau:
1. Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị định này:
a) Tổ chức xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp hạng I xếp lương loại A3 theo phân cấp, ủy quyền;
b) Tổ chức xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp hạng I xếp lương loại A2 và từ hạng II trở xuống đối với viên chức làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập phù hợp với vị trí việc làm và cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp đã được phê duyệt;
c) Quyết định bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp, xếp lương, nâng bậc lương (thường xuyên, trước thời hạn), phụ cấp thâm niên vượt khung đối với viên chức giữ chức danh nghề nghiệp hạng I trở xuống (bao gồm cả chức danh nghề nghiệp hạng I xếp lương viên chức loại A3) thuộc phạm vi quản lý.
2. Việc phân công, phân cấp tổ chức xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp trong các đơn vị sự nghiệp công lập của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thực hiện theo quy định của cơ quan có thẩm quyền của Đảng.
Theo quy định tại Điều 32, Luật Viên chức 2010 (được sửa đổi, bổ sung năm 2019): “Viên chức được trả lương theo vị trí việc làm, chức danh nghề nghiệp và theo chế độ tiền lương do Chính phủ quy định.” Như vậy,tiền lương không được chi trả theo bằng cấp cao nhất, mà dựa trênchức danh nghề nghiệp và vị trí việc làm.
Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, việc quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc UBND cấp xã. Do đó, để được thông tin rõ hơn, Bà có thể liên hệ với Hiệu trưởng trường học công lập và UBND xã Vu Gia để được giải đáp và hướng dẫn cụ thể.
Vậy, Sở Nội vụ thông tin để Bà được biết.
Đối với câu hỏi của bà Phạm Lê Kim Thanh, Sở Nội vụ trả lời như sau:
Tại khoản 9 Điều 16 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18/9/2020 của Chính phủ về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 7 Điều 1 Nghị định số 71/2023/NĐ-CP ngày 20/9/2023 của Chính phủ) quy định một trong những trường hợp áp dụng hình thức kỷ luật khiển trách đối với viên chức, cụ thể như sau: “Vi phạm quy định của pháp luật về: phòng, chống bạo lực gia đình; dân số, hôn nhân và gia đình; bình đẳng giới; an sinh xã hội; quy định khác của Đảng và của pháp luật liên quan đến cán bộ, công chức”.
Theo Điều 1 Pháp lệnh Dân số 07/2025/UBTVQH15 ngày 03/6/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung Điều 10 của Pháp lệnh dân số như sau: Quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản: Quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khoẻ, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con của cặp vợ chồng, cá nhân trên cơ sở bình đẳng.
Tại điểm 2 Khoản 1 Hướng dẫn số 15-HD/UBKTTW ngày 20/3/2025 của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương về sửa đổi, bổ sung Hướng dẫn số 05-HD/UBKTTW, ngày 22/11/2022 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về thực hiện một số điều trong Quy định số 69-QĐ/TW, ngày 6/7/2022 của Bộ Chính trị về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, quy định: “Không xem xét xử lý đối với hành vi quy định tại khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh số 08/2008/PL-UBTVQH12 ngày 27 tháng 12 năm 2008 sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh dân số năm 2003 “Sinh một hoặc hai con, trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định.”
Như vậy, theo thông tin cung cấp, trường hợp bà Phạm Lê Kim Thanh là giáo viên sinh con thứ ba vào tháng 9/2024, không phải là đảng viên, thì tại thời điểm sinh con, quy định của pháp luật hiện hành hành vi sinh con thứ ba có thể bị xem xét xử lý kỷ luật theo hình thức khiển trách, nếu không thuộc một trong các trường hợp được miễn trừ quy định tại khoản 2 Điều 27 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18/9/2020 của Chính phủ.
Theo Pháp lệnh số 07/2025/UBTVQH15 ngày 03/6/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung Điều 10 của Pháp lệnh Dân số số 06/2003/PL-UBTVQH11 đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh số 08/2008/PL-UBTVQH12 có hiệu lực thi hành từ ngày 03/6/2025, việc sinh con thứ ba không còn được coi là hành vi vi phạm chính sách dân số. Do vậy, kể từ ngày 03/6/2025, những trường hợp chưa bị xem xét bị xử lý kỷ luật vì sinh con thứ 3 sẽ không còn bị xem xét, xử lý kỷ luật.
Theo quy định phân cấp hiện nay của thành phố, việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức thuộc thẩm quyền của UBND xã Bà Nà. Do đó, để được thông tin rõ hơn, Bà có thể liên hệ trực tiếp với Phòng Văn hóa - Xã hội, UBND xã Bà Nà để được giải đáp và hướng dẫn cụ thể.
Sở Nội vụ nhận được câu hỏi của Bà liên quan quan đến Nội quy lao động, về trường hợp này, Sở Nội vụ có ý kiến như sau:
Hiện nay, căn cứ pháp luật để xây dựng, ban hành và đăng ký Nội quy lao động là Bộ luật Lao động năm 2019 và Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động.
Do đó, đơn vị phải rà soát, điều chỉnh và đăng ký lại Nội quy lao động phù hợp với quy định pháp luật nêu trên.
Vậy, Sở Nội vụ có ý kiến trả lời để Bà được biết, thực hiện. Trong trường hợp có vướng mắc, Bà có thể liên hệ Sở Nội vụ (thông qua Phòng Chính sách việc làm, số điện thoại: 02363.822124) để được hỗ trợ, hướng dẫn./.
Đối với câu hỏi của bà Trần Ngọc Tuyết, Sở Nội vụ trả lời như sau:
Tại Điều 4 Nghị định số 98/2023/NĐ-CP ngày 31/12/2023 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng quy định một trong các nguyên tắc xét danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng, cụ thể như sau: “Chưa khen thưởng hoặc đề nghị cấp trên khen thưởng cho cá nhân, tập thể trong thời gian cơ quan có thẩm quyền đang xem xét thi hành kỷ luật...”.
Theo quy định phân cấp hiện nay của thành phố, việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức (trong đó có xử lý kỷ luật, thi đua - khen thưởng) thuộc thẩm quyền của UBND quận, huyện. Do đó, để được thông tin rõ hơn, Bà có thể liên hệ trực tiếp với Phòng Nội vụ quận Liên Chiểu để được giải đáp và hướng dẫn cụ thể.
Kính gửi: Bà Ngô Thị Thọ An
Sở Nội vụ trả lời câu hỏi của bà như sau:
Chính sách đối với người nghỉ hưu trước tuổi trong thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được thực hiện theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 178/2024/NĐ-CP ngày 31/12/2024 (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 5, khoản 6 và khoản 7 Điều 1 Nghị định số 67/2025/NĐ-CP ngày 15/3/2025) của Chính phủ; trong đó không có quy định về chế độ nâng bậc lương trước thời hạn đối với người nghỉ hưu trước tuổi trong thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
Hiện nay, chế độ nâng bậc lương trước thời hạn đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động được thực hiện theo quy định tại Thông tư số 08/2013/TT-BNV ngày 31/7/2013 (được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 03/2021/TT-BNV ngày 29/6/2021) của Bộ trưởng Bộ Nội vụ; trong đó quy định 02 chế độ nâng bậc lương trước thời hạn, bao gồm: Chế độ nâng bậc lương trước thời hạn do lập thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ và chế độ nâng bậc lương trước thời hạn đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động đã có thông báo nghỉ hưu.Trường hợp cá nhân đáp ứng đầy đủ các điều kiện, tiêu chuẩn của chế độ nâng bậc lương trước thời hạn quy định tại Thông tư số 08/2013/TT-BNV, Thông tư số 03/2021/TT-BNV và Quy chế, quy định về chế độ nâng bậc lương trước thời hạn của cơ quan, đơn vị đang công tác thì được cơ quan có thẩm quyền xem xét việc nâng bậc lương trước thời hạn theo quy định.
Liên quan đến việc thực hiện chế độ nâng bậc lương trước thời hạn đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động, đề nghị bà liên hệ cơ quan, đơn vị nơi công tác để được trao đổi, hướng dẫn cụ thể theo thẩm quyền quy định.
Trân trọng./
Kính đề nghị công dân đến trực tiếp Công an phường nơi đăng ký tạm trú để được giải đáp, hướng dẫn cụ thể.
Trân trọng !
Sở Nội vụ kính gửi nội dung trả lời của Bộ Nội vụ đối với trường hợp tương tự đã được đăng trên Báo Điện tử Chính phủ (link: https://baochinhphu.vn/tieu-chuan-de-duoc-xet-tang-bang-khen-cua-thu-tuong-102240222150554495.htm). Cụ thể nội dung câu hỏi và trả lời của Bộ Nội vụ như sau:
“Điều kiện đề nghị xét tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ là đã được tặng bằng khen của Bộ, ban, ngành, tỉnh và có liên tục từ 5 năm trở lên đến thời điểm đề nghị được công nhận hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên, trong thời gian đó có 3 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở.
Ông Trần Phong Linh Duy (Sóc Trăng) có thời gian công tác trên 17 năm trong ngành và có thành tích liên tục trong năm 5 gần đây như sau:
- Năm 2019: Hoàn thành tốt nhiệm vụ, Lao động tiên tiến, Giấy khen của Giám đốc Sở và có đề tài sáng kiến cấp cơ sở được công nhận.
- Năm 2020: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, Chiến sĩ thi đua cơ sở, Giấy khen của Giám đốc Sở và có đề tài sáng kiến cấp cơ sở được công nhận.
- Năm 2021: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, Chiến sĩ thi đua cơ sở, Giấy khen của Giám đốc Sở và có đề tài sáng kiến cấp cơ sở được công nhận.
- Năm 2022: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, Chiến sĩ thi đua cơ sở và có đề tài sáng kiến cấp cơ sở được công nhận, được đề nghị tặng bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2021 -2022.
- Năm 2023: Đầu năm được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2021 - 2022, cuối năm 2023 được xét Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, Chiến sĩ thi đua cơ sở và có đề tài sáng kiến cấp cơ sở được công nhận và được Bộ trưởng tặng Bằng khen chuyên đề năm 2023.
Nếu xét theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 71 Luật Thi đua, khen thưởng năm 2003 (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 38 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng năm 2013) thì ông Duy chưa đủ điều kiện để đề nghị tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ vì theo quy định phải được tặng bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh và 5 năm tiếp theo liên tục Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ (theo quy định này thì phải có bằng khen của tỉnh rồi và 5 năm tiếp theo kể từ khi có bằng khen mà hoàn thành xuất sắc liên tục mới được công nhận).
Tuy nhiên, hiện nay theo Điểm b Khoản 1 Điều 73 Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022: "Đã được tặng bằng khen của Bộ, ban, ngành, tỉnh và có liên tục từ 05 năm trở lên đến thời điểm đề nghị được công nhận hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên, trong thời gian đó có 03 lần được tặng danh hiệu "Chiến sĩ thi đua cơ sở".
Quy định này có nội dung mới hơn là bỏ đi cụm từ "5 năm tiếp theo" mà thay vào đó cụm từ "có liên tục từ 05 năm trở lên đến thời điểm đề nghị được công nhận hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên, trong thời gian đó có 03 lần được tặng danh hiệu "Chiến sĩ thi đua cơ sở".
Quy định này hiện nay có 2 cách hiểu:
- Cách hiểu thứ nhất: phải có Bằng khen của tỉnh và sau đó 5 năm tiếp theo đủ điều kiện mới được đề nghị. Ví dụ: Năm 2023 có Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh thì đến năm 2030 nếu đủ điều kiện thì mới được đề nghị Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ.
- Cách hiểu thứ hai: Chỉ cần trong giai đoạn liên tục 5 năm trở lên đến thời điểm đề nghị công nhận phải có Bằng khen của tỉnh, có 3 lần đạt Chiến sĩ thi đua cơ sở và hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên do đã bỏ đi cụm từ "5 năm tiếp theo". Ví dụ: Đến thời điểm đề nghị công nhận tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ năm 2024, cho giai đoạn 5 năm (2019 - 2023), trong đó, có liên tục 5 năm hoàn thành tốt nhiệm vụ (2019 - 2023), có 1 bằng khen của tỉnh (2023) và có 3 lần đạt Chiến sĩ thi đua cơ sở là đủ điều kiện.
Ông Duy hỏi, nếu hiểu theo cách hiểu thứ hai thì năm 2024, với những thành tích nêu trên ông có đủ điều kiện đề nghị tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ cho giai đoạn 2019 - 2023 không?
Về vấn đề này, Bộ Nội vụ trả lời như sau:
Điểm b Khoản 1 Điều 73 Luật Thi đua, khen thưởngnăm 2022 quy định: "Đã được tặng bằng khen của Bộ, ban, ngành, tỉnh và có liên tục từ 05 năm trở lên đến thời điểm đề nghị được công nhận hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên, trong thời gian đó có 03 lần được tặng danh hiệu "Chiến sĩ thi đua cơ sở"".
Như vậy, sau khi được tặng bằng khen của Bộ, ban, ngành, tỉnh, cá nhân phải có liên tục từ 5 năm trở lên đến thời điểm đề nghị được công nhận hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên, trong thời gian đó có 3 lần được tặng danh hiệu "Chiến sĩ thi đua cơ sở" thì đủ điều kiện đề nghị xét tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ.”
Sở Nội vụ thông tin để ông được biết./.
Cục Thuế TP Đà Nẵng nhận được phản ánh của Ông Võ Minh Hướng qua “hệ thống tiếp nhận, trả lời phản ánh, kiến nghị của người dân và doanh nghiệp” trên Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng về thời gian xử lý hồ sơ lệ phí trước bạ xe ô tô, Cục Thuế có ý kiến phản hồi như sau:
Ngày 03/09/2024 ông Võ Minh Hướng, MST: 0400764264 có khai điện tử hồ sơ phương tiện có mã hồ sơ 1102024001638191/TB-CCT ngày 03/9/2024 với số tiền phải nộp: 37.450.000đ.
Ngày 04/09/2024 ông Võ Minh Hướng đã nộp đủ số tiền vào NSNN.
Ngày 05/09/2024 ông Võ Minh Hướng có đến Chi cục Thuế khu vực Cẩm Lệ - Hòa Vang hỏi về trường hợp khai LPTB phương tiện trên cổng thông tin Dịch vụ công quốc gia đối với hồ sơ trên với lỗi không tìm thấy thông tin thuế. Sau khi kiểm tra hồ sơ của ông Võ Minh Hướng thì được biết cổng thông tin Dịch vụ công quốc gia bị lỗi do nâng cấp hệ thống dịch vụ công trực tuyến toàn trình nên mã hồ sơ đó trên lỗi không khai được. Chi cục có liên hệ bộ phận hỗ trợ nhờ xử lý với mã hồ sơ nêu trên và đã được xử lý lúc 16h cùng ngày (đã thông tin cho ông Võ Minh Hướng được biết).
Cục Thuế TP Đà Nẵng phản hồi thông tin đến Ông Võ Minh Hướng./.