Về nội dung Bạn hỏi, xin được trả lời như sau:
Tại điểm 5.1, điểm 5.2 khoản 5 Điều 17 Văn bản hợp nhất số 2525/VBHN-BHXH ngày 15/8/2023 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành Quy trình thu BHXH, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; quản lý sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế,quy định: Người có tên trong cùng một hộ gia đình đăng ký thường trú hoặc tạm trú thì tham gia BHYT theo hộ gia đình.
Căn cứ vào quy định trên, nếu Bạn đăng ký thường trú hoặc tạm trú theo quy định tại Đà Nẵng thì Bạn có thể tham gia BHYT hộ gia đình qua các Tổ chức dịch vụ thu BHXH, BHYT (các điểm thu của Bưu điện hoặc các điểm thu của Công ty Bảo hiểm PVI Đà Nẵng…tại Liên Chiểu) để mua BHYT hộ gia đình.
Thủ tục tham gia: Bạn lập Tờ khai tham gia, điều chỉnh thông tin BHXH, BHYT (theo mẫu TK1-TS) nộp Tổ chức dịch vụ thu BHYT.
Trân trọng./.
Cục Thuế thành phố Đà Nẵng nhận được Phiếu chuyển ngày 11/9/2024 của Văn phòng UBND thành phố Đà Nẵng chuyển nội dung kiến nghị của độc giả Trương Hùng Anh đề nghị giải đáp về thuế thu nhập cá nhân (TNCN). Về vấn đề này, Cục Thuế có ý kiến như sau:
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 2 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 5 Điều 11 Thông tư 92/2015/TT-BTC) hướng dẫn các khoản thu nhập không tính vào thu nhập chịu thuế TNCN:
- Tiết g.1 hướng dẫn về khoản hỗ trợ của người sử dụng lao động cho việc khám chữa bệnh hiểm nghèo cho bản thân người lao động và thân nhân của người lao động không tính vào thu nhập chịu thuế TNCN;
- Tiết g.10 hướng dẫn về khoản tiền nhận được do tổ chức, cá nhân trả thu nhập chi đám hiếu, hỉ cho bản thân và gia đình người lao động theo quy định chung của tổ chức, cá nhân trả thu nhập và phù hợp với mức xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp theo các văn bản hướng dẫn thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Căn cứ các hướng dẫn trên và nội dung hỏi của độc giả, Cục Thuế thành phố có ý kiến như sau:
Trường hợp khoản chi hỗ trợ là khoản hỗ trợ khám chữa bệnh hiểm nghèo; chi đám hiếu, hỉ cho bản thân và gia đình người lao động nếu đáp ứng các điều kiện được hướng dẫn tại tiết g.1 và tiết g.10 điểm g khoản 2 Điều 2 Thông tư số 111/2013/TT-BTC (được sửa đổi, bổ sung nêu trên) thì các khoản này không tính vào thu nhập chịu thuế TNCN.
Cục Thuế thành phố Đà Nẵng trả lời để độc giả Trương Hùng Anh được biết. Trường hợp cần trao đổi thêm, đề nghị liên hệ trực tiếp với Cục Thuế (Phòng Tuyên truyền - Hỗ trợ) để được hướng dẫn hoặc tham khảo thêm thông tin về chính sách thuế tại trang thông tin điện tử của Cục Thuế thành phố Đà Nẵng tại địa chỉ: http://danang.gdt.gov.vn./.
Trung tâm Điều hành đèn tín hiệu giao thông và vận tải công cộng trân trọng cám ơn ý kiến góp ý của Quý Công dân và thông tin như sau:
Về việc điều chỉnh tăng cường xe buýt tuyến 16: Trung tâm đã làm việc với đơn vị vận hành, xây dựng biểu đồ, bổ sung thêm xe để đáp ứng nhu cầu của người dân trong giờ cao điểm.
Trong quá trình sử dụng dịch vụ xe buýt công cộng thành phố, nếu có vấn đề phát sinh, Quý Công dân có thể liên hệ số điện thoại đường dây nóng: 0236 3711468 (Hotline Danabus) hoặc 0236 3722026 (số điện thoại xử lý về vé) để được hỗ trợ tốt nhất.
Vậy, Trung tâm thông tin để Quý Công dân được biết. Trân trọng./.
Cục Thuế TP Đà Nẵng nhận được phản ánh của Ông Võ Minh Hướng qua “hệ thống tiếp nhận, trả lời phản ánh, kiến nghị của người dân và doanh nghiệp” trên Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng về thời gian xử lý hồ sơ lệ phí trước bạ xe ô tô, Cục Thuế có ý kiến phản hồi như sau:
Ngày 03/09/2024 ông Võ Minh Hướng, MST: 0400764264 có khai điện tử hồ sơ phương tiện có mã hồ sơ 1102024001638191/TB-CCT ngày 03/9/2024 với số tiền phải nộp: 37.450.000đ.
Ngày 04/09/2024 ông Võ Minh Hướng đã nộp đủ số tiền vào NSNN.
Ngày 05/09/2024 ông Võ Minh Hướng có đến Chi cục Thuế khu vực Cẩm Lệ - Hòa Vang hỏi về trường hợp khai LPTB phương tiện trên cổng thông tin Dịch vụ công quốc gia đối với hồ sơ trên với lỗi không tìm thấy thông tin thuế. Sau khi kiểm tra hồ sơ của ông Võ Minh Hướng thì được biết cổng thông tin Dịch vụ công quốc gia bị lỗi do nâng cấp hệ thống dịch vụ công trực tuyến toàn trình nên mã hồ sơ đó trên lỗi không khai được. Chi cục có liên hệ bộ phận hỗ trợ nhờ xử lý với mã hồ sơ nêu trên và đã được xử lý lúc 16h cùng ngày (đã thông tin cho ông Võ Minh Hướng được biết).
Cục Thuế TP Đà Nẵng phản hồi thông tin đến Ông Võ Minh Hướng./.
Theo thông tin do Ông cung cấp, Bảo hiểm xã hội (BHXH) thành phố Đà Nẵng đã kiểm tra, rà soát nhưng không tìm thấy dữ liệu tham gia BHXH của Ông. Vào ngày 12/9/2024, BHXH thành phố đã liên hệ trực tiếp với Ông nhưng Ông không cung cấp chính xác đơn vị làm việc, hồ sơ, chứng từ liên quan đến vụ tai nạn lao động (TNLĐ).
Theo quy định của pháp luật, người lao động đang làm việc mà bị TNLĐ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm thành lập Đoàn điều tra tai nạn lao động cấp cơ sở để tiến hành điều tra tai nạn lao động; thực hiện trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động được quy định tại Điều 38, Điều 39 Luật An toàn, vệ sinh lao động số 84/2015/QH13, quy định như sau:
“Điều 38. Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Người sử dụng lao động có trách nhiệm đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp như sau:
1. Kịp thời sơ cứu, cấp cứu cho người lao động bị tai nạn lao động và phải tạm ứng chi phí sơ cứu, cấp cứu và điều trị cho người lao động bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp;
2. Thanh toán chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định cho người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp như sau:
a) Thanh toán phần chi phí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao động tham gia bảo hiểm y tế;
b) Trả phí khám giám định mức suy giảm khả năng lao động đối với những trường hợp kết luận suy giảm khả năng lao động dưới 5% do người sử dụng lao động giới thiệu người lao động đi khám giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng giám định y khoa;
c) Thanh toán toàn bộ chi phí y tế đối với người lao động không tham gia bảo hiểm y tế;
3. Trả đủ tiền lương cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải nghỉ việc trong thời gian điều trị, phục hồi chức năng lao động;
4. Bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động mà không hoàn toàn do lỗi của chính người này gây ra và cho người lao động bị bệnh nghề nghiệp với mức như sau:
a) Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương nếu bị suy giảm từ 5% đến 10% khả năng lao động; sau đó cứ tăng 1% được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80%;
b) Ít nhất 30 tháng tiền lương cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
5. Trợ cấp cho người lao động bị tai nạn lao động mà do lỗi của chính họ gây ra một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức quy định tại khoản 4 Điều này với mức suy giảm khả năng lao động tương ứng;
6. Giới thiệu để người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định y khoa xác định mức độ suy giảm khả năng lao động, được điều trị, điều dưỡng, phục hồi chức năng lao động theo quy định pháp luật;
7. Thực hiện bồi thường, trợ cấp đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày có kết luận của Hội đồng giám định y khoa về mức suy giảm khả năng lao động hoặc kể từ ngày Đoàn điều tra tai nạn lao động công bố biên bản điều tra tai nạn lao động đối với các vụ tai nạn lao động chết người;
8. Sắp xếp công việc phù hợp với sức khỏe theo kết luận của Hội đồng giám định y khoa đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp sau khi điều trị, phục hồi chức năng nếu còn tiếp tục làm việc;
9. Lập hồ sơ hưởng chế độ về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định tại Mục 3 Chương này;
10. Tiền lương để làm cơ sở thực hiện các chế độ bồi thường, trợ cấp, tiền lương trả cho người lao động nghỉ việc do bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều này là tiền lương bao gồm mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác thực hiện theo quy định của pháp luật về lao động.
11. Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định chi tiết các khoản 3, 4 và 5 Điều này.”
“Điều 39. Trách nhiệm của người sử dụng lao động về bồi thường, trợ cấp trong những trường hợp đặc thù khi người lao động bị tai nạn lao động
1. Trường hợp người lao động bị tai nạn lao động khi thực hiện nhiệm vụ hoặc tuân theo sự điều hành của người sử dụng lao động ở ngoài phạm vi cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, hợp tác xã, nếu do lỗi của người khác gây ra hoặc không xác định được người gây ra tai nạn, thì người sử dụng lao động vẫn phải bồi thường cho người lao động theo quy định tại khoản 4 Điều 38 của Luật này.
2. Trường hợp người lao động bị tai nạn khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở theo tuyến đường và thời gian hợp lý, nếu do lỗi của người khác gây ra hoặc không xác định được người gây ra tai nạn thì người sử dụng lao động trợ cấp cho người lao động theo quy định tại khoản 5 Điều 38 của Luật này.
3. Trường hợp người sử dụng lao động đã mua bảo hiểm tai nạn cho người bị tai nạn lao động tại các đơn vị hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo hiểm, thì người bị tai nạn lao động được hưởng các khoản chi trả bồi thường, trợ cấp theo hợp đồng đã ký với đơn vị kinh doanh dịch vụ bảo hiểm. Nếu số tiền mà đơn vị kinh doanh dịch vụ bảo hiểm trả cho người bị tai nạn lao động thấp hơn mức quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 38 của Luật này, thì người sử dụng lao động phải trả phần còn thiếu để tổng số tiền người bị tai nạn lao động hoặc thân nhân của người bị tai nạn lao động nhận được ít nhất bằng mức bồi thường, trợ cấp được quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 38 của Luật này.
4. Nếu người sử dụng lao động không đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội, thì ngoài việc phải bồi thường, trợ cấp theo quy định tại Điều 38 của Luật này, người sử dụng lao động phải trả khoản tiền tương ứng với chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định tại Mục 3 Chương này khi người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; việc chi trả có thể thực hiện một lần hoặc hằng tháng theo thỏa thuận của các bên, trường hợp không thống nhất thì thực hiện theo yêu cầu của người lao động.
5. Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định chi tiết Điều này.”
Căn cứ các quy định nêu trên, trường hợp tai nạn của Ông nếu được kết luận là TNLĐ thì Ông có quyền yêu cầu người sử dụng lao động thực hiện trách nhiệm đối với Ông được quy định tại Điều 38, Điều 39 Luật An toàn, vệ sinh lao động số 84/2015/QH13. Trường hợp người sử dụng lao động không thực hiệnđầy đủ trách nhiệm của mình Ông có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện theo quy định của pháp luật.
Trân trọng!
Cục Thuế TP Đà Nẵng nhận được nội dung hỏi của Ông/Bà Võ Thị Tâm, mã số thuế 3200283216 về xử lý hồ sơ hoàn thuế thu nhập cá nhân (TNCN) của cá nhân; Cục Thuế có ý kiến phản hồi như sau:
Liên quan đến hồ sơ đề nghị hoàn thuế thu nhập cá nhân (TNCN), tại Cục Thuế thành phố Đà Nẵng, số lượng hồ sơ hoàn thuế TNCN mà Người nộp thuế (NNT) gửi cơ quan Thuế với số lượng tăng qua các năm. Bên cạnh đó, số lượng lớn hồ sơ được nhiều NNT gửi trong cùng thời điểm đã tạo áp lực rất lớn trong việc giải quyết hoàn thuế. Vì vậy, ngày 19/3/2024 Cục Thuế đã có công văn số 2943/CTDAN-HKDCN về việc hoàn thuế TNCN báo cáo Tổng cục Thuế và Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng báo cáo việc giải quyết hoàn thuế TNCN của NNT sẽ được Cục Thuế thực hiện như sau:
- Cục Thuế sẽ giải quyết hoàn thuế cho NNT theo thứ tự thời gian hồ sơ mà NNT gửi đến cơ quan Thuế, vì vậy số ngày giải quyết hoàn thuế cho NNT không thể đúng theo quy định (06 ngày);
- Kiểm tra các hồ sơ hoàn thuế mà NNT gửi đến, nếu hồ sơ đảm bảo đúng thủ tục, đúng số liệu thì giải quyết hoàn thuế, các hồ sơ không đảm bảo yêu cầu theo quy định thì Cục Thuế ban hành Thông báo không chấp nhận văn bản đề nghị hoàn thuế của NNT.
Ngày 05/4/2024 Cục Thuế đã đăng thông báo trên trang Website của ngành về việc chậm giải quyết hồ sơ hoàn thuế TNCN cho cá nhân (“Thông báo về chậm giải quyết hồ sơ hoàn thuế TNCN”), Cục Thuế không thể giải quyết hoàn trả đúng thời gian theo quy định và xin lỗi đến NNT, Cục Thuế sẽ giải quyết hoàn thuế cho NNT trong thời gian sớm nhất; Bên cạnh đó, Cục Thuế gửi mail đồng loạt đến các cá nhân có gửi hồ sơ hoàn thuế TNCN để thông báo về việc cơ quan Thuế giải quyết hồ sơ hoàn thuế không đúng thời gian theo quy định(Mail gửi theo file đính kèm, file GUI MAIL.doc).
Số lượng hồ sơ NNT đề nghị hoàn thuế gửi đến Cục Thuế trong tháng 04/2024 là 3.655 hồ sơ, hàng tháng với nhân sự hiện có của phòng (03công chức) chỉ giải quyết khoảng 1.000 hồ sơ hoàn thuế/1 tháng, lượng hồ sơ hoàn thuế CQT nhận trong tháng 04/2024 dự kiến phải giải quyết từ tháng 05-07/2024, số lượng hồ sơ phát sinh từ tháng 05-07/2024 sẽ được giải quyết từ tháng 08/2024 trở đi, hiện nay số hồ sơ hoàn thuế NNT gửi đến CQT là bình quân 50-100 hồ sơ hoàn thuế/1 ngày.
Các trường hợp NNT gửi văn bản đến đường dây nóng CQT sẽ vẫn giải quyết theo thứ tự thời gian, không ưu tiên giải quyết trước để tránh tình trạng NNT truyền thông tin với nhau là có văn bản gửi đến đường dây nóng sẽ được sớm giải quyết hoàn thuế.
Ngày 10/4/2024, Ông/Bà Võ Thị Tâm, mã số thuế 3200283216 nộp hồ sơ quyết toán thuế thu nhập cá nhân tại Cục Thuế thành phố Đà Nẵng có số đề nghị hoàn tuy nhiên NNT kê khai sai chỉ tiêu “Số thuế đã nộp trong năm không qua tổ chức trả thu nhập” (chỉ tiêu ô 35), số liệu đúng là NNT phải kê khai số thuế TNCN đã khấu trừ vào chỉ tiêu “Số thuế đã khấu trừ tại tổ chức trả thu nhập” (chỉ tiêu ô 34)
Căn cứ hồ sơ NNT gửi đến Cục Thuế, Cục Thuế kết xuất đồng loạt và gửi mail cho tất cả các cá nhân kê khai sai chỉ tiêu ô 35 (vì khi NNT kê khai sai thì sẽ phát sinh số thuế phải nộp bằng giá trị kê khai tại chỉ tiêu ô 35), trường hợp này cơ quan Thuế chưa kiểm tra chi tiết hồ sơ hoàn thuế của NNT.
Ngày 22/4/2024 NNT gửi văn bản đến cơ quan Thuế đề nghị huỷ quyết toán đã nộp để kê khai đúng số liệu, ngày 24/4/2024 NNT nộp lại quyết toán thuế TNCN, NNT kê khai tại VNEI nên các thông báo của cơ quan Thuế không gửi đến địa chỉ mail NNT được.
Ngày 24/6/2024 Cục Thuế ban hành Thông báo số 15475//TB-CTDAN-KDT về việc không chấp nhận Hồ sơ đề nghị hoàn thuế, Lý do: Người phụ thuộc (NPT) Nguyễn Thị Thùy Ân có 03 mã số thuế: 8349095907, 8367261924, 8750175206. Theo quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 30 Luật Quản lý thuế Luật số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019 quy định về Đối tượng đăng ký thuế và cấp mã số thuế như sau:
“b) Cá nhân được cấp 01 mã số thuế duy nhất để sử dụng trong suốt cuộc đời của cá nhân đó. Người phụ thuộc của cá nhân được cấp mã số thuế để giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế thu nhập cá nhân. Mã số thuế cấp cho người phụ thuộc đồng thời là mã số thuế của cá nhân khi người phụ thuộc phát sinh nghĩa vụ với ngân sách nhà nước;”
NNT liên hệ Cục Thuế (bộ phận 01 cửa) để làm thủ tục đóng MST do cấp trùng, khi đi mang theo bản photo CCCD của NNT và giấy khai sinh của NPT; ngoài ra NNT có NPT là đối tường “Khác” vì vậy hồ sơ đính kèm chứng minh NPT Mẫu 07/XN-NPT-TNCN (Ban hành kèm theo Thông tư số 80/2021/TT-BTC ngày 29 tháng 9 năm 2021 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính) và các hồ sơ chứng minh mối quan hệ giữa NNT và NPT khác (quy định tại Điều 104, Điều 105 Luật hôn nhân và gia đình số 52/2015/QH13).
NNT kê khai tờ khai quyết toán bằng VNEI nên thông báo của cơ quan Thuế không gửi về địa chỉ mail của NNT được; Ngày 30/8/2024 NNT mới đăng ký cấp tài khoản giao dịch điện tử về thuế thì từ ngày 30/8/2024 trở đi tất cả thông báo của cơ quan Thuế sẽ gửi về địa chỉ mail vothitam.vietnam@gmail.com (tài khoản NNT đăng ký với cơ quan Thuế).
Cục Thuế phản hồi thông tin đến Ông/Bà Võ Thị Tâm./.
Để có cơ sở xử lý , kính đề nghị công dân trình báo tại UBND phường nơi cư trú kèm bằng chứng cụ thể. Trân trọng !
Cục Thuế TP Đà Nẵng nhận được nội dung hỏi của Ông/Bà Nguyễn Thị Quỳnh Châu, mã số thuế 8074831412 về hồ sơ đề nghị hoàn thuế thu nhập cá nhân (TNCN); Cục Thuế có ý kiến phản hồi như sau:
Liên quan đến hồ sơ đề nghị hoàn thuế thu nhập cá nhân, tại Cục Thuế thành phố Đà Nẵng, số lượng hồ sơ hoàn thuế TNCN mà Người nộp thuế (NNT) gửi cơ quan Thuế với số lượng tăng qua các năm. Bên cạnh đó, số lượng lớn hồ sơ được nhiều NNT gửi trong cùng thời điểm đã tạo áp lực rất lớn trong việc giải quyết hoàn thuế. Vì vậy, ngày 19/3/2024 Cục Thuế đã có công văn số 2943/CTDAN-HKDCN về việc hoàn thuế TNCN báo cáo Tổng cục Thuế và Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng báo cáo việc giải quyết hoàn thuế TNCN của NNT sẽ được Cục Thuế thực hiện như sau:
Ngày 05/4/2024 Cục Thuế đã đăng thông báo trên trang Website của ngành về việc chậm giải quyết hồ sơ hoàn thuế TNCN cho cá nhân (“Thông báo về chậm giải quyết hồ sơ hoàn thuế TNCN”), Cục Thuế không thể giải quyết hoàn trả đúng thời gian theo quy định và xin lỗi đến NNT, Cục Thuế sẽ giải quyết hoàn thuế cho NNT trong thời gian sớm nhất; Bên cạnh đó, Cục Thuế gửi mail đồng loạt đến các cá nhân có gửi hồ sơ hoàn thuế TNCN để thông báo về việc cơ quan Thuế giải quyết hồ sơ hoàn thuế không đúng thời gian theo quy định(mail gửi theo file đính kèm, file GUI MAIL.doc).
Ngày 01/4/2024 Ông/Bà Nguyễn Thị Quỳnh Châu, mã số thuế 8074831412 nộp hồ sơ quyết toán thuế thu nhập cá nhân tại Cục Thuế thành phố Đà Nẵng có số đề nghị hoàn; Cục Thuế đã ban hành Thông báo số 8938/TB-CTDAN-KDT ngày 17/4/2024 về việc không chấp nhận Hồ sơ đề nghị hoàn thuế, lý do: “NNT kê khai số người phụ thuộc không khớp với dữ liệu NNT đăng ký với cơ quan Thuế” Ngày 13/5/2024 Ông/Bà Nguyễn Thị Quỳnh Châu lập tờ khai bổ sung và Cục Thuế đã ban hành quyết định số 3639/QĐ CTDAN-KDT ngày 22/7/2024 về việc hoàn thuế (Lệnh hoàn số 11442/LH-CTDAN-KDT ngày 24/7/2024), số tiền hoàn thuế đã được chuyển về tài khoản NNT số TK 19029925394016 tại Ngân hàng Techcombank. Nguyên nhân NNT không nhận được thông báo, quyết định của cơ quan Thuế: NNT chưa có tài khoản giao dịch thuế điện tử, NNT nộp quyết toán thuế bằng VNIE nên các thông tin CQT gửi điện tử (Thông báo, quyết định) NNT không nhận được, để nhận được các thông tin bằng hình thức điện tử từ CQT, NNT liên hệ cơ quan Thuế gần nhất để được cấp tài khoản giao dịch điện tử (NNT mang theo CCCD).
Cục Thuế phản hồi thông tin đến Ông/Bà Nguyễn Thị Quỳnh Châu./.