Tôi tên là Nguyễn Văn Minh, sinh ngày 12/01/1990, CCCD số 048090001300
Trong thời gian qua, tôi có đến cơ quan thuế để đăng ký mã số thuế cá nhân nhằm thực hiện nghĩa vụ nộp lệ phí trước bạ xe ô tô, nhưng bị cán bộ thuế từ chối với lý do:
Sau khi nghiên cứu kỹ các quy định pháp luật hiện hành, tôi xin được hỏi rõ và mong quý cơ quan trả lời công khai các vấn đề sau:
1. Có đúng là từ ngày 01/7/2025, cá nhân chỉ được cấp mã số thuế nếu đã hoàn tất nghĩa vụ thuế của công ty cũ
– Theo tôi tìm hiểu, Thông tư 86/2024/TT-BTC (có hiệu lực từ 06/02/2025) và Thông tư 40/2025/TT-BTC (ban hành ngày 13/6/2025) không hề có nội dung nào quy định như vậy.
2. Cá nhân chưa từng có mã số thuế, có được sử dụng số định danh cá nhân (CCCD) để thực hiện nghĩa vụ nộp thuế không?
– Theo Điều 5, Điều 8 và Điều 39 Thông tư 86/2024/TT-BTC, từ ngày 01/7/2025, cá nhân có số định danh hợp lệ trên CCCD sẽ được sử dụng số này làm mã số thuế cá nhân – không cần phải “được cấp mới” như trước. Vậy cán bộ từ chối cấp có đúng?
3. Nếu cán bộ thuế từ chối cấp mã số thuế cá nhân, công dân có quyền yêu cầu biên bản ghi nhận lý do hay không?
– Tôi muốn hỏi rõ: trong trường hợp cán bộ từ chối giải quyết yêu cầu chính đáng của công dân, tôi có quyền yêu cầu lập biên bản ghi nhận nội dung làm việc, lý do từ chối và có dấu xác nhận hay không
Tôi đề nghị cơ quan thuế xác nhận rõ:
Tôi xin trân trọng cảm ơn và mong sớm nhận được phản hồi.
Trân trọng,
Nguyễn Văn Minh
Kính gửi độc giả Nguyễn Văn Minh,
Qua tra cứu trên hệ thống Thuế, ngày 15/7/2025 độc giả đã được Thuế cơ sở 1 Thành phố Đà Nẵng cấp mã số thuế 10 số là 8943728055 theo số CCCD là 048090001300.
Thuế Thành phố Đà Nẵng thông báo để độc giả Nguyễn Văn Minh được biết, thực hiện./
Đối với kiến nghị của ông Hà Thanh Bá, Sở Nội vụ trả lời như sau:
Tại khoản 10 Điều 23 Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 72/2025/QH15 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch UBND xã như sau: “Chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác tuyển dụng, sử dụng, quản lý công chức, viên chức trên địa bàn theo quy định của pháp luật và phân cấp của cơ quan nhà nước cấp trên; quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, cách chức người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Ủy ban nhân dân cấp mình;…”.
Theo điểm a khoản 1 Mục II Công văn số 3022/UBND-NV ngày 21/5/2025 của UBND thành phố Đà Nẵng về việc tổ chức bộ máy, sắp xếp, bố trí cán bộ, công chức, viên chức, người lao động các quận, huyện, phường, xã khi sắp xếp đơn vị hành chính: “Giữ nguyên các trường trung học cơ sở, tiểu học, mầm non công lập và chuyên giao cho chính quyền địa phương cấp xã quản lý”.
Như vậy, hiện nay, việc quản lý, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, cách chứcHiệu trưởng trường Trung học cơ sở trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp xã. Sở Nội vụ sẽ chuyển thông tin phản ánh của công dân đến Chủ tịch UBND phường Sơn Trà để kiểm tra, xử lý theo thẩm quyền và quy định.
Sở Nội vụ thông tin để ông được biết.
Kính đề nghị công dân liên hệ Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an TP Đà Nẵng theo số điện thoại 0694260186 để được hỗ trợ cụ thể.
Trân trọng !
Kính gửi độc giả Trần Hữu SAng,
Thuế Thành phố Đà Nẵng có nhận được vướng mắc thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất. Về những nội dung của độc giả hỏi không thuộc thẩm quyền của Thuế Thành phố Đà Nẵng hướng dẫn. Đề nghị độc giả liên hệ với các cơ quan chức năngđể được hướng dẫn theo quy định.
Thuế Thành phố Đà Nẵng thông báo để Độc giảđược biết và thực hiện./.
Thuế Thành phố Đà Nẵng nhận được vướng mắc của độc giả Bùi Thị Minh Thu về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.
Thuế cơ sở 3 Thành phố Đà Nẵng có công văn số 96/TCS3-QLTK ngày 15/72025 về việc trả lời ý kiến.
huế Thành phố Đà Nẵng chuyển thông tin cho độc giả được biết và thực hiện ./.
Sở Nội vụ nhận được câu hỏi của Ông liên quan đến trợ cấp thôi việc. Về nội dung này, Sở Nội vụ có ý kiến như sau:
Tại Điều 46 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định:
“Điều 46. Trợ cấp thôi việc
1. Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 6, 7, 9 và 10 Điều 34 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương, trừ trường hợp đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều 36 của Bộ luật này.
2. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm.
3. Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân của 06 tháng liền kề theo hợp đồng lao động trước khi người lao động thôi việc.
4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.”
Và tại khoản 3 Điều 8 Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động quy định:
“3. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trong đó:
a)Tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động bao gồm: thời gian người lao động đã trực tiếp làm việc; thời gian thử việc; thời gian được người sử dụng lao động cử đi học; thời gian nghỉ hưởng chế độ ốm đau, thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; thời gian nghỉ việc để điều trị, phục hồi chức năng lao động khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà được người sử dụng lao động trả lương theo quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động; thời gian nghỉ việc để thực hiện nghĩa vụ công dân theo quy định của pháp luật mà được người sử dụng lao động trả lương; thời gian ngừng việc không do lỗi của người lao động; thời gian nghỉ hằng tuần theo Điều 111, nghỉ việc hưởng nguyên lương theo Điều 112, Điều 113, Điều 114, khoản 1 Điều 115; thời gian thực hiện nhiệm vụ của tổ chức đại diện người lao động theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 176 và thời gian bị tạm đình chỉ công việc theo Điều 128 của Bộ luật Lao động.
b) Thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật và thời gian người lao động thuộc diện không phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật nhưng được người sử dụng lao động chi trả cùng với tiền lương của người lao động một khoản tiền tương đương với mức người sử dụng lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo quy định của pháp luật về lao động, bảo hiểm thất nghiệp.
c) Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm của người lao động được tính theo năm (đủ 12 tháng); trường hợp có tháng lẻ ít hơn hoặc bằng 06 tháng được tính bằng 1/2 năm, trên 06 tháng được tính bằng 01 năm làm việc.”
Căn cứ quy định nêu trên, thời gian thử việc được tính là thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động để tính trợ cấp thôi việc và thời gian người lao động thuộc diện không phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật nhưng được người sử dụng lao động chi trả cùng với tiền lương của người lao động một khoản tiền tương đương với mức người sử dụng lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo quy định của pháp luật về lao động, bảo hiểm thất nghiệp được tính là thời gian đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp để tính trả trợ cấp thôi việc.
Do đó, đề nghị Ông rà soát việc chi trả tiền lương trong thời gian thử việc và đối chiếu với quy định nêu trên để kiến nghị đơn vị sử dụng lao động thực hiện giải quyết theo quy định./.
Người lao động nộp hồ sơ để được giải quyết chế độ hưu. (Đã tư vấn qua điện thoại).
Trân trọng!
Công dân nghiên cứu nội dung theo hướng dẫn sau :
Ông Trần Viết Sơn kiến nghị về số tiền nợ thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đối với thửa đất số 25, tờ bản đồ B1-110, địa chỉ: Thanh Lương 11, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA486143 cấp ngày 06/07/2015. Về vấn đề này, Đội Thuế có ý kiến như sau: Theo dữ liệu thu nộp thuế sử dụng đất phi nông nghiệp qua các năm đến ngày 02/7/2025: Ông Sơn đã nộp thuế sử dụng đất năm 2020, 2021, 2023, 2024, 2025 lần lượt theo các số biên lai: 45757, 79355, 33743, 78295, DAN6868/257577316. Như vậy, số tiền thuế sử dụng đất PNN ông Sơn còn nợ qua các năm cụ thể như sau: - Năm 2016: 66.000 đồng, - Năm 2017: 105.000 đồng, - Năm 2018: 105.000 đồng, - Năm 2019: 105.000 đồng; - Năm 2022: 405.000 đồng. Tổng số tiền thuế sử dụng đất PNN còn nợ là: 786.000 đồng.
Căn cứ Phiếu chuyển thông tin địa chính số 67527 ngày 08/5/2025 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Hòa Vang đối với hồ sơ chuyển 2 nhượng quyền sử dụng đất tại thửa đất số 12 tờ bản đồ B2-9, Khu dân cư phía Nam sông Quá Giáng, xã Hòa Phước, huyện Hòa Vang của ông Trần Văn Hân cho bà Lê Thị Lệ Hằng. Đội Thuế đã ban hành thông báo nộp tiền về thuế Thu nhập cá nhân đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản số LTB2550111- TK0009152/TB-ĐT ngày 13/05/2025 cho ông Trần Văn Hân, số tiền: 10.680.000 đồng. Ngày 15/05/2025, ông Hân đã nộp đủ tiền vào NSNN theo đúng thời hạn quy định. Tuy nhiên, do ứng dụng quản lý thuế lỗi chưa tự động hạch toán bù trừ nghĩa vụ thuế với số nộp nên phát sinh nợ thuế của ông Hân theo Thông báo số LTB2550111-TK0009152/TB-ĐT ngày 13/5/2025. Đội Thuế đã thực hiện xử lý bù trừ thủ công đối với trường hợp của ông và rất mong ông thông cảm về sự bất tiện này.