Kính gửi ông/bà Hạnh Phúc
Chi cục Thuế Khu vực Thanh Khê - Liên Chiểu đã có Công văn số 599/CCTKV-TTHT ngày 08/3/2024 trả lời nội dung hỏi của ông/bà (file đính kèm)
Đối với câu hỏi của bà Phan Thị Hồng Nhung, Sở Nội vụ trả lời như sau:
- Việc hủy kết quả tuyển dụng được quy định tại khoản 2 Điều 17 và khoản 3 Điều 18 Nghị định số 115/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức.
- Chế độ nghỉ thai sản được thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành.
Hiện nay, theo quy định phân cấp của thành phố, việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức thuộc thẩm quyền của UBND quận, huyện. Do đó, để được thông tin rõ hơn, Bà có thể liên hệ trực tiếp với Phòng Nội vụ thuộc UBND quận, huyện nơi Bà đang công tác và nơi Bà trúng tuyển viên chức để được giải đáp và hướng dẫn cụ thể.
Vậy, Sở Nội vụ thông tin để Bà được biết.
Liên quan đến nội dung này, Sở Xây dựng đã có Công văn số 1601/SXD-QLCL ngày 12/3/2024 trả lời Công ty Cổ phần Dệt may 29/3 (văn bản kèm theo).
Kính gửi công dân Pham Anh Vũ!
Việc nâng cấp, mở rộng các tuyến đường có mặt cắt lòng đường trên địa bàn quận hiện đang được sở Xây dựng báo cáo UBND thành phố để trình HĐND thành phố phê duyệt.
Trân trọng!
(danh sách đính kèm)
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp nhận được câu hỏi của ông có nội dung liên quan đến người có công với cách mạng. Qua kiểm tra hồ sơ lưu trữ và trao đổi với địa phương, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội trả lời ông như sau:
Bản thân ông là bộ đội đã nghỉ hưu, là thương binh 4/4 (21%) đang hưởng trợ cấp hàng tháng tại phường Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn; ông được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì: Căn cứ theo quy định tại Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng thì trường hợp của ông là Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế. Trường hợp của ông đã được giải quyết trợ cấp 01 lần tại Quyết định số 3520/QĐ-LĐTBXH ngày 08/6/2001 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội TP Đà Nẵng (Số hồ sơ: 15835).
Hiện nay, người lao động có thể đi làm việc tại Hàn Quốc dưới 2 hình thức
1. Làm việc theo chương trình cấp phép việc làm của Hàn Quốc (chương trình EPS), người lao động phải đáp ứng những điều kiện sau đây:
+ Từ 18 đến 39 tuổi
+ Không có án tích theo quy định của pháp luật
+ Chưa từng bị trục xuất khỏi Hàn Quốc
+ Nếu đã từng cư trú tại Hàn Quốc theo visa E9 (lao động EPS) hoặc visa E10 (thuyền viên tàu đánh cá) thì thời gian cư trú phải dưới 5 năm
+ Không bị cấm xuất cảnh Việt Nam
+ Không có thân nhân đang cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc
+ Đủ sức khỏe đi làm việc tại Hàn Quốc
+ Không bị mù màu, rối loạn sắc giác
+ Được doanh nghiệp Hàn Quốc sử dụng lao động lựa chọn sau khi tham dự và đạt yêu cầu qua kỳ thi tiếng Hàn do Bộ Việc làm và Lao động Hàn Quốc phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tổ chức.
2. Làm việc thời vụ theo hình thức hợp tác giữa hai địa phương của Việt Nam và Hàn Quốc: Hiện nay ở Đà Nẵng, có chương trình đi làm việc thời vụ tại Hàn Quốc trong ngành nông nghiệp được kí kết giữa UBND huyện Hòa Vang, Đà Nẵng và huyện Yeongyang, tỉnh Gyeoongsangbuk, Hàn Quốc, người lao động phải đáp ứng các điều kiện như sau:
+ Những người làm nông nghiệp tại huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
+ Về Độ tuổi: Độ tuổi từ 30 đến 50 tuổi. Đối với những người đã từng tham gia Chương trình lao động thời vụ tại Hàn Quốc các năm trước và được chủ vườn đánh giá lao động ưu tú thì không giới hạn độ tuổi (số lượng được chọn không vượt quá 30% tổng số lượng đi mỗi đợt).
+ Công dân thường trú tại huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam; có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không có tiền án và không thuộc diện cấm không được xuất cảnh, tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật; có đủ sức khỏe để đi làm việc ở nước ngoài (không mắc bệnh truyền nhiễm).
+ Những người không có người quen tại Hàn Quốc.
Như vậy, hai hình thức đi làm việc tại Hàn Quốc (chương trình EPS, chương trình lao động thời vụ) điều yêu cầu người lao động không có người thân quen tại Hàn Quốc.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nhận được câu hỏi của ông/bà liên quan đến hợp đồng lao động, sau khi nghiên cứu nội dung câu hỏi, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội có ý kiến như sau:
Tại Điều 13 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định:
“Điều 13. Hợp đồng lao động
1. Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, tiền lương, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.
Trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên thì được coi là hợp đồng lao động.
2. Trước khi nhận người lao động vào làm việc thì người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động với người lao động.”
Vì vậy, trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên thì được coi là hợp đồng lao động.
Để đảm bảo quyền lợi của mình, ông/bà có thể liên hệ Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, tầng 20 Trung tâm hành chính thành phố Đà Nẵng, số 24 Trần Phú, thành phố Đà Nẵng, số điện thoại 02363.822022 (Thông qua Phòng Chính sách việc làm) cung cấp các hồ sơ liên quan để được hướng dẫn thực hiện hiện theo quy định pháp luật./.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nhận được câu hỏi của ông/bà liên quan đến hợp đồng lao động và tham gia bảo hiểm xã hội, sau khi nghiên cứu nội dung câu hỏi, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội có ý kiến như sau:
Bên cạnh đó, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng trở lên thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Vì vậy, trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên thì được coi là hợp đồng lao động. Trường hợp giao kết hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng trở lên thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội trả lời để ông/bà được biết, thực hiện./.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
ĐƠN XIN Ý KIẾN CHỈ ĐẠO
(V/v: Quy trình xử lý không gia hạn hợp đồng cho người lao động.
Tôi tên là: Phạm Đức Phú
Đơn vị công tác: Công ty TNHH Weblife, địa chỉ: tầng 10, tòa nhà Soho 27-29 Lý Tư Trọng, phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
Chức vụ: Giám đốc
Tôi viết đơn này để xin chỉ đạo từ phía Sở Lao động – Thương binh và xã hội Đà Nẵng về quy trình xử lý không gia hạn hợp đồng lao động.
Cụ thể như sau:
Chúng tôi đã thông báo cho nhân viên này về quyết định không gia hạn hợp đồng vào ngày 4/12/2023.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nhận được câu hỏi của ông/bà liên quan đến trợ cấp thôi việc, sau khi nghiên cứu nội dung câu hỏi, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội có ý kiến như sau:
Tại khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định:
“1. Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 6, 7, 9 và 10 Điều 34 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương, trừ trường hợp đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều 36 của Bộ luật này.
2. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm.”
Tại khoản 3 Điều 8 Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động quy định:
“3. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trong đó:
a)Tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động bao gồm: thời gian người lao động đã trực tiếp làm việc; thời gian thử việc; thời gian được người sử dụng lao động cử đi học; thời gian nghỉ hưởng chế độ ốm đau, thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; thời gian nghỉ việc để điều trị, phục hồi chức năng lao động khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà được người sử dụng lao động trả lương theo quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động; thời gian nghỉ việc để thực hiện nghĩa vụ công dân theo quy định của pháp luật mà được người sử dụng lao động trả lương; thời gian ngừng việc không do lỗi của người lao động; thời gian nghỉ hằng tuần theo Điều 111, nghỉ việc hưởng nguyên lương theo Điều 112, Điều 113, Điều 114, khoản 1 Điều 115; thời gian thực hiện nhiệm vụ của tổ chức đại diện người lao động theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 176 và thời gian bị tạm đình chỉ công việc theo Điều 128 của Bộ luật Lao động.
b) Thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật và thời gian người lao động thuộc diện không phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật nhưng được người sử dụng lao động chi trả cùng với tiền lương của người lao động một khoản tiền tương đương với mức người sử dụng lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo quy định của pháp luật về lao động, bảo hiểm thất nghiệp.
c) Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm của người lao động được tính theo năm (đủ 12 tháng); trường hợp có tháng lẻ ít hơn hoặc bằng 06 tháng được tính bằng 1/2 năm, trên 06 tháng được tính bằng 01 năm làm việc.”
Căn cứ quy định nêu trên, khi chấm dứt hợp đồng lao động (trường hợp hết hạn hợp đồng lao động) thì người sử dụng lao động có trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.
Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp. Trong đó, thời gian thử việc được tính là thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động.
Đối với câu hỏi của bà Lê Na, Sở Nội vụ trả lời như sau:
Hiện nay, Sở Giáo dục và Đào tạo đang triển khai về việc xét thăng hạng giáo viên các trường mầm non, tiểu học và phổ thông công lập. Do đó, mọi thông tin chi tiết UBND cấp huyện sẽ phổ biến khi có hướng dẫn cụ thể của Sở Giáo dục và Đào tạo.
Sở Nội vụ phúc đáp để bà được biết. Trân trọng!